Còn nhiều dư địa để khai thác Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh

Còn nhiều dư địa để khai thác Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh

Ngày 23/6, tại TP HCM, Bộ Công Thương phối hợp với Đại sứ quán Anh tại Việt Nam và Phòng Thương mại Anh tại Việt Nam tổ chức hội thảo “Khai thác các tiềm năng thị trường Vương quốc Anh, tận dụng lợi thế của Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA)”.

Hội thảo được tổ chức theo hình thức trao đổi, tọa đàm trực tiếp nhằm mục đích khai thác, tận dụng tốt cơ hội mang lại từ Hiệp định UKVFTA và tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng thương mại với Vương quốc Anh thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất và cung ứng của các doanh nghiệp Anh.

Hội thảo diễn ra hai phiên thảo luận với Chủ đề 1: Cơ hội doanh nghiệp Anh đầu tư vào Việt Nam và cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng trong lĩnh vực công nghiệp của Anh; Chủ đề 2: Kinh nghiệm xuất khẩu các sản phẩm nông thủy sản sang thị trường Anh, tận dụng các điều khoản Hiệp định UKVFTA của doanh nghiệp; nhu cầu của doanh nghiệp Anh; các tiêu chuẩn, chứng nhận cần có; quy trình thủ tục xuất khẩu và thanh toán…

Các diễn giả tham gia hội thảo đã chia sẽ những câu chuyện thú vị và kinh nghiệm thực tiễn khi giao thương với đối tác Anh.

Thương mại hai chiều tăng trưởng ấn tượng

Kể từ khi Hiệp định UKVFTA có hiệu lực, kim ngạch thương mại Việt Nam - Anh trong năm 2021 ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, bất chấp đại dịch Covid-19. Theo số liệu thống kê, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Vương quốc Anh năm 2021 đạt 6,6 tỷ USD, tăng 17,2% so với năm 2020. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 5,8 tỷ USD, tăng 16,4%; xuất khẩu của Anh đạt 849 triệu USD, tăng 23,6%. Tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2022, do vẫn còn chịu các tác động của đại dịch Covid-19 và tình hình địa chính trị phức tạp trên thế giới dẫn đến đứt gãy trong chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Vương quốc Anh đạt 2,68 tỷ USD, tương đương mức kim ngạch cùng kỳ của 2021.

Ông Tạ Hoàng Linh - Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Bộ Công Thương phát biểu tại hội thảo

Trong lĩnh vực đầu tư, tính đến tháng 5/2022, Vương quốc Anh có tổng cộng 462 dự án đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam, với tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực đạt 4,15 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 0,97% trong tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại Việt Nam. Các nhà đầu tư Vương quốc Anh đầu tư nhiều nhất tại Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo với 120 dự án, vốn đầu tư đăng ký đạt gần 1,6 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 23 dự án, tổng vốn đầu tư 1,04 tỷ USD, chiếm 26% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực khai khoáng đứng thứ 3 với 7 dự án, tổng vốn đăng ký 701,44 triệu USD, chiếm 18% tổng vốn đầu tư. Các dự án còn lại thuộc các lĩnh vực khác như: bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy; dịch vụ lưu trú và ăn uống; cấp nước và xử lý chất thải; hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ; giáo dục và đào tạo...

Ông Chris Milliken – Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Anh tại Việt Nam (Britcham) cho rằng, kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đang dần có dấu hiệu phục hồi tích cực sau đại dịch Covid-19. Đây là minh chứng rõ ràng nhất về lợi ích mà Hiệp định UKVFTA mang lại cho sự phát triển kinh tế, thương mại Việt Nam – Anh. Ông Chris Milliken tin rằng, hợp tác thương mại – đầu tư giữa hai nước sẽ còn tiến xa hơn nữa bởi cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của hai nước mang tính bổ sung cho nhau thay vì cạnh tranh.

Nhiều dư địa mở rộng hợp tác công nghiệp, năng lượng

Với việc quan hệ ngoại giao, kinh tế, thương mại hai nước ngày càng được nâng cao trong thời gian gần đây với hàng loạt các chuyến thăm cấp cao, các hợp đồng kinh tế lớn được ký kết và việc đầu tư kinh doanh bài bản của các doanh nghiệp Anh vào Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để hợp tác, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ từ Anh, đồng thời tham gia vào chuỗi cung ứng ngành công nghiệp, năng lượng của Anh, cũng như xuất khẩu sản phẩm công nghiệp sang Anh, tận dụng lợi thế sẵn có của Hiệp định UKVFTA. Hơn nữa, Vương quốc Anh là quốc gia có nền công nghiệp công nghệ cao phát triển, đặc biệt là công nghệ về năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời), tiết kiệm năng lượng.

Tại phiên thảo luận về “Cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam và Anh hợp tác xây dựng, tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng trong lĩnh vực công nghiệp, năng lượng”, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Anh tại Việt Nam (Britcham) Chris Milliken đánh giá cao cam kết đưa lượng phát thải ròng về 0 đến năm 2050 của Việt Nam tại COP26. Đồng thời cho rằng, để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam hiện tại đang khá cởi mở để tiếp nhận các giải pháp công nghệ giúp xây dựng nền tảng năng lượng tái tạo của mình. Đây lại là lĩnh vực mà Vương quốc Anh những năm gần đây đã tập trung phát triển, có thế mạnh.

Đồng tình với quan điểm của ông Milliken, ông Hoàng Thùy Dương, Phó Tổng Giám đốc điều hành Bộ phận tư vấn thuế và hỗ trợ doanh nghiệp KPMG Việt Nam và bà Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, đã chỉ ra cơ hội đầu tư dành cho doanh nghiệp Anh vào Việt Nam cũng như cơ hội hợp tác của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp của Anh, những ưu đãi mà doanh nghiệp hai nước có thể tận dụng để phát triển mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp và năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, ông Võ Hồng Kiệt - Giám đốc dịch vụ khách hàng, Viện Tiêu chuẩn Anh Quốc (BSI Group) đã cung cấp thông tin về các tiêu chuẩn, các loại chứng nhận cần có để doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu sản phẩm công nghiệp, vật liệu sang Anh.

Sau thời gian thảo luận hết sức sôi nổi, Hội thảo phần nào đã giúp mở ra bức tranh rộng hơn về các cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Vương quốc Anh. Đồng thời, Bộ Công Thương Việt Nam, Bộ Thương mại quốc tế Anh, Đại sứ quán Anh tại Việt Nam cũng được lắng nghe về các quan tâm của doanh nghiệp hai nước, những ý kiến đóng góp được kỳ vọng sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước của hai nước có thể phối hợp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, hỗ trợ một cách thiết thực hơn cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước trong thời gian tới.